Nhân vật & Sự kiện

Người nhân bản: Đi sâu vào tương lai đen tối của thiên truyện Blade Runner 2049

09/10/2017

Brian Raftery là cây bút lão luyện tại WIRED. Quái vật Điện ảnh chuyển ngữ bài viết của tác giả sau chuyến thăm trường quay và trao đổi với đoàn làm phim Blade Runner 2049.

TÔI NHÌN THẤY NHỮNG THỨ mà người đời quý vị sẽ không tin: Những tòa nhà chọc trời chìm trong sương mù vàng vọt; Elvis Presley biểu diễn trên sân khấu của một hộp đêm; nước tràn ra cửa sổ của một chiếc xe bay, chỉ để tan biến — như nước mắt trong mưa.

Và tôi đã nhìn thấy thợ săn người nhân bản đầu tiên lại bắt đầu chạy... lần nữa... và lần nữa.

Ryan Gosling (phải), anh xem Harrison Ford (trái) trong phim Blade Runner đầu khi còn là cậu nhóc ở Canada, nói: "Sức mạnh của khoa học giả tưởng, và điều tích cực về nó, là bạn có thể trải nghiệm tình huống xấu nhất mà không phải thực sự sống qua."

Một buổi sáng mùa thu năm 2016, trong phòng thu sâu hun hút ở Budapest, Harrison Ford — mặc áo khoác xám, quần jean sẫm màu, mang vẻ mặt nhăn nhó khó chịu của Ford — đang quay một cuộc chạm trán quyết định trong Blade Runner 2049. Lần đầu tiên sau hơn ba thập niên, Ford trở lại vai Rick Deckard, tay cảnh sát say xỉn từ Blade Runner năm 1982 của Ridley Scott. Nam diễn viên 75 tuổi chịu đựng nhiều thương tích do công việc bao năm — đây là chàng trai đã lãnh một đụn lớn của chiếc Millennium Falcon rơi lên chân — nhưng anh chẳng có dấu hiệu hao mòn nào khi chạy nước rút băng qua chung cư giống như hầm mộ của Deckard, lắc vai mạnh mẽ và một con chó sói phi bên cạnh. Trong cảnh quay ngày hôm đó, Deckard đang bị đặc vụ tên là K (Ryan Gosling) truy lùng, một cách có phương pháp — thậm chí có phần một cách như rôbô — đã bùng qua bức tường đá cẩm thạch của Deckard như một Kool-Aid Man săn chắc hơn, dữ tợn hơn. Nhưng cứ mỗi lần Gosling bùng phá được vào trong phòng, lại làm cho con chó sợ hãi, hoảng loạn trước khung hình cho đến khi Denis Villeneuve, vị đạo diễn người Pháp-Canada 49 tuổi, có thể hô, "Cắt!"

Không rõ tại sao K lại không sử dụng cửa trước, vì cốt truyện của Blade Runner 2049 được canh phòng cẩn mật với kiểu mức độ luôn được dành cho những cảnh phim quay lại của Star Wars. Tuy nhiên, có một vài chi tiết đã được xác nhận: Ba mươi năm sau khi khán giả bỏ lại Deckard bầm dập và nhừ tử ở Los Angeles năm 2019, anh đã biến mất, và nhân vật sĩ quan Sở cảnh sát Los Angeles của Gosling đang đi săn tìm (có thể theo chỉ thị của sếp anh, do Robin Wright đóng, mặc dù không ai liên quan đến bộ phim này nói chắc được.) Trong khi đó, có một giống nòi người nhân bản (replicant) mới — thuật ngữ của loạt phim để chỉ người máy sinh học — được một nhà phát minh bí ẩn tên là Wallace (Jared Leto) tạo ra, với sự trợ giúp của một nhân viên tận tụy, Luv (Sylvia Hoeks). Êkíp làm phim 2049 cho tôi biết được bấy nhiêu, bất kể tôi hỏi han lịch sự đến đâu. "Thậm chí tôi không chắc mình có được phép nói rằng tôi đã có một thời gian rất vui khi đóng phim này không nữa," Gosling đùa.

Harrison Ford trở lại vai Rick Deckard, chạy nước rút, lắc vai mạnh mẽ và một con chó sói phi bên cạnh. Đặc vụ tên là K (Ryan Gosling) bùng qua bức tường đá cẩm thạch, truy đuổi

Trong lúc Ford lao qua cảnh quay hết lần này đến lần khác và Gosling tiếp tục bùng qua tường, Villeneuve đứng bên ngoài căn hộ chung cư giả đó, mái tóc ngắn hoa râm của anh trông rối bù như sáng sớm mới thức dậy. Khi Villeneuve hài lòng với một cảnh quay, anh thường lặp lại những từ của anh, lần nào cũng như lần nấy, bằng giọng Quebec đặc sệt. "Khi bạn nghe ba từ deeply – ‘Tôi hết sức, hết sức, thích hết sức’ — thì bạn biết mình vào trúng điểm ngọt rồi đó,” Gosling nói.) Sau khi cuối cùng con chó cũng diễn được đúng lúc, Villeneuve cho tay vào túi áo và gật đầu vui vẻ: "Tuyệttuyệttuyệttuyệttuyệt."

Mặc dù thái độ của đạo diễn rất điềm đạm — khi không nói chuyện khẽ khàng với các diễn viên, anh nhai kẹo cao su và vuốt ve bộ râu của mình một cách khắc kỷ — anh đã lo lắng. Anh không muốn những cảnh hành động trong 2049 của anh quá ồn ào hoặc táo bạo hoặc, như anh nói, "quá Marvel". Thay vào đó, anh nói, "Tôi muốn hạ xuống càng gần càng tốt với Blade Runner gốc: đơn giản, tàn bạo hơn." Điều đó là hợp lý nếu phim đầu tiên đã thành công và người xem đã đổ xô đến với tầm nhìn ớn lạnh (và, vâng, tàn bạo) về một tương lai không-quá-xa-xôi bị tàn phá bởi thảm họa sinh thái và doanh nghiệp thối nát. Nhưng người ta đã không thế, và thậm chí sau nhiều thập kỷ tiếp theo phát hiện trào lưu, giới phê bình xét lại, và ảnh hưởng văn hóa to lớn, Blade Runner 2049 vẫn là một trong những dự án hiếm nhất ở Hollywood: một bộ phim trị giá 150 triệu đôla, phân loại R là phần tiếp theo của một phim không nhiều người thích (hoặc thậm chí là hiểu được) khi lần đầu tiên xuất hiện.

Điều làm cho tất thảy những chuyện trên càng khó ước tính hơn đó là 2049 — mất 35 năm thực hiện và ra rạp trong tháng này — hứa hẹn một viễn cảnh tương lai thậm chí còn tối tăm hơn phim đầu, khuếch đại nỗi sợ hãi tương lai hậu tận thế vốn đã ‘xịt’ với người xem phim và các nhà phê bình hồi năm 1982. Nếu khán giả phải mất nhiều năm mới kết nối được với tương lai trong Blade Runner đầu, thì họ sẽ phản ứng thế nào với phiên bản sự tình trở nên còn tồi tệ hơn nữa của Villeneuve?

Đạo diễn Denis Villeneuve (phải) đang chỉ đạo Ford và Gosling trên trường quay Blade Runner 2049

RIDLEY SCOTT THỀ RẰNG ông không nghĩ quá nhiều về quá khứ. Hỏi ông liệu ông có thấy dường như rốt cuộc thế giới đã bắt kịp Blade Runner không, ông sẽ cho bạn một cái nhìn chằm chằm dữ dội và một cái nhún vai: "Tôi cóc cần biết."

Chờ đã, thực không?

"Không, tôi cóc cần quan tâm," ông nói. "Tôi đã có một bộ phim quay ở Rome trong hai tuần. Điều quan trọng cần làm là tiến lên và không bao giờ nhìn lại."

Scott, 79 tuổi, đã từng làm ra một số phim khoa học viễn tưởng đình đám, đi trước thời đại, được chế tác tỉ mỉ nhất trong bốn thập niên qua. Vào một buổi chiều mùa xuân ở Los Angeles, ông ngồi ở cuối trường kỷ trong bộ đồ toàn đen, phong cách thân mật và nhiệt tình, dẫu là theo kiểu nào-hãy-dành-thời-gian-cho-chuyện-này nhé. Và mặc dù Scott nói ghét nhìn lại, ông đã dành nhiều thập niên cố gắng duy trì quan tâm đến Blade Runner, dẫu (hoặc có lẽ vì) sự khó khăn của ông mà làm cho bộ phim — các nhà bỏ vốn tức giận, một êkíp đau khổ, trì hoãn bất tận cạn kiệt sinh lực — kéo dài đến độ có thể viết thành cả một cuốn sách, cũng như một phim tài liệu dài ba tiếng rưỡi.

"Khoa học giả tưởng là một hình thức thính phòng rất đặc biệt," Scott nói. "Đó là một rạp hát, một cái hộp, trong đó chuyện gì cũng có — nhưng tốt hơn bạn nên soạn ra các hướng dẫn và quy tắc trước khi bắt đầu."

Thiên truyện ngoài màn ảnh bắt đầu năm 1977, khi một nam diễn viên đang chật vật tên là Hampton Fancher để mắt tới việc làm một bộ phim từ tác phẩm Do Androids Dream of Electric Sheep của Philip K. Dick, một cuốn tiểu thuyết đầy ắp ý tưởng, hoang tưởng về một thợ săn-người máy, Deckard, phải lòng một người máy tổng hợp tên là Rachael. Trong tiểu thuyết, cũng như trong bản phim hoàn chỉnh, các người máy do một công ty bí mật, khẳm tiền chế tạo ra và thường được gửi đi làm những công việc mà con người không muốn làm nữa. Lấy tên Blade Runner từ một cuốn sách của William S. Burroughs, Fancher cộng tác với Scott — cất cánh từ bộ phim không gian Alien ám ảnh thành công đình đám — và cả hai đã trải qua những tháng dài, đôi khi gây gổ kịch liệt, làm ra các phiên bản ban đầu của kịch bản, tìm cách hình thành khái niệm cuộc sống vào năm 2019. "Khoa học giả tưởng là một hình thức thính phòng rất đặc biệt," Scott nói. "Đó là một rạp hát, một cái hộp, trong đó chuyện gì cũng có — nhưng tốt hơn bạn nên soạn ra các hướng dẫn và quy tắc trước khi bắt đầu. Bằng không, bạn tiêu tùng."

Sau quá nhiều bất đồng sáng tạo với Fancher, Scott đưa David Peoples (của Unforgiven 12 Monkeys) về để giúp hoàn thành kịch bản. Năm 1981, cuối cùng phim đã khởi quay, với Ford trong vai Deckard và Sean Young trong vai Rachael, và một đạo diễn Scott sinh ở Anh phát hiện ra mình lệch pha với êkíp người Mỹ của ông — và, có tin đồn, với Ford. Scott phủ nhận sự căng thẳng giữa ông và ngôi sao của ông tệ hại như những gì các báo đưa tin làm người ta tin: "Ồ, chúng tôi ổn mà! Tôi thường uống say với Harrison trong quá trình quay phim."

Một cảnh trong Blade Runner 1982, với cấu trúc và bầu không khí trong một bối cảnh mơ hồ - Nhiều trong số những người đã mua vé đi xem dội ngược bởi miêu tả tương lai của bộ phim

Khi Blade Runner được phát hành vào tháng 6/1982, ngay cả sức mạnh ngôi sao hậu-Star Wars của Ford cũng như uy tín của Scott hậu-Alien cũng không đưa bộ phim trở thành ‘hit’ nổi. Lấy bối cảnh một tương lai xám xịt, không mong muốn, không có ánh nắng hay cảnh trời quang mây tạnh — và bùng nổ với những khoảnh khắc (theo nghĩa đen) bạo lực lác mắt — bộ phim khiến hầu hết người xem mất hứng, họ bèn chọn trải qua mùa hè với E.T. hoặc cuốn vào cơn thịnh nộ của Khan. (Blade Runner kiếm được một con số xoàng xoàng 6,15 triệu đôla trong tuần mở màn, chỉ hơn Rocky III đã trình chiếu gần cả tháng). Nhiều trong số những người đã mua vé đi xem bị dội ngược bởi miêu tả tương lai của bộ phim. "Không giống như Flash Gordon, trong phim ai cũng có những bộ đồ không gian tuyệt vời và tàu vũ trụ sáng bóng, và ai nấy trông thật gợi cảm," nhà vật lý theo thuyết vị lai Michio Kaku nói. "Trong Blade Runner, người ta không thích nghi với ngoại cảnh, còn các rôbô làm công việc bẩn thỉu. Phim gây sốc cho mọi người."

Cú sốc đặc biệt khó giũ bỏ vì, không như đa số phim khoa học giả tưởng khác của thời kỳ ấy, Blade Runner không tìm tương lai ở đâu xa. Trái với những phim Star Trek hay Alien — những cuộc lùng sục dải ngân hà nhiều thế kỷ về sau — Blade Runner của Scott là một lời tiên đoán hay nhất giới hạn ở Trái Đất về một thành phố hỗn loạn ở nước Mỹ có thể trông ra làm sao trong vòng thời gian sống của khán giả. Bạn cảm thấy như thể gần như với tay chạm vào công nghệ trong Blade Runner, khiến cho thế giới mà bộ phim này đang hướng đến thảy càng rõ ràng hơn — và đáng sợ. "Đó là một bộ phim ám ảnh bạn," Gosling nói, anh đã xem bản gốc Blade Runner lúc mới lớn ở nhà anh ở Canada, "vì cảm giác tương lai đó có thể xảy ra."

Những đường phố đông đúc, những đường chân trời văn hóa hỗn loạn, và các công nghệ tiềm ẩn độc hại trong Blade Runner năm 1982

Blade Runner biến khỏi rạp nhanh chóng như khi nó đến, mặc dù bây giờ Scott cho biết ông không hoàn toàn ngạc nhiên bởi cuộc đời thứ hai kỳ lân-hiếm có của nó bên ngoài màn ảnh rộng. "Tôi biết chúng tôi có gì," ông nói. “Và tôi biết nó đặc biệt.” Vài năm sau khi phát hành, Fancher bước vào một hiệu sách Shakespeare & Co. ở thành phố New York, người bán sách nhận ra tên của nhà biên kịch. "Anh ấy nói, 'Chúng tôi có một câu lạc bộ Blade Runner!'" Fancher nhớ lại. "Chúng tôi đã mua một bản phim 35mm, và mỗi tháng chúng tôi gặp nhau rồi tìm một chỗ để chiếu."

Nhờ vào các buổi trình chiếu nửa đêm, truyền hình cáp và phát hành video gia đình, ngày càng có nhiều người xem thấy mình lạc trong thế giới tương lai của Blade Runner, cuốn hút vào sự hùng vĩ của cảnh quan thành phố bị giam hãm trong phim và phát biểu của Rutger Hauer trong mưa rơi và âm thanh thánh thót, cảnh nhân vật phản diện Roy Batty của anh, than khóc một cuộc đời mà anh ta chỉ mới bắt đầu hiểu. (“Tôi đã nhìn thấy những thứ người ta sẽ không tin…”) Và vì cách kể chuyện rườm rà dài dòng cùng sự mơ hồ trong thể loại của bộ phim, mỗi lần xem có thể cảm nhận Blade Runner mỗi khác: một câu chuyện trinh thám, một phim hành động, một phim lãng mạn — hoặc có thể tất cả cùng một lúc. "Tôi chắc chắn đã xem bộ phim là một câu chuyện tình, về những người tìm kiếm nhân thân của mình," Hoeks của 2049 nói, cô đã xem phim này lần đầu ở quê nhà Hà Lan. "Và phim nói về những con người nỗ lực kiểm soát cuộc đời họ."

Cảnh nhân vật phản diện Roy Batty của Rutger Hauer phát biểu trong mưa rơi và âm thanh thánh thót trong Blade Runner

Trong vòng một thập kỷ, Scott đóng lại câu chuyện công nghệ-đen tối — với những đường phố đông đúc, những đường chân trời văn hóa hỗn loạn, và các công nghệ tiềm ẩn độc hại — sẽ thúc đẩy một thế hệ các nhà làm phim mới theo đuổi những tầm nhìn tương lai óng ả, phô trương của riêng họ, nhiều trong số đó trông rất giống Blade Runner. Vẻ đẹp ẩm ướt của Blade Runner đã chảy tràn qua những bộ phim điện ảnh và truyền hình như The Matrix, Cowboy Bebop, Akira, The Fifth ElementGhost in the Shell bản gốc. Trong khi đó, những trò chơi video như BioShock Perfect Dark, đã vay mượn rất nhiều vốn từ vựng hình ảnh của Blade Runner. "Thoạt đầu tôi đã thích thú trước việc Blade Runner là một phim có tầm ảnh hưởng," Scott nói. "Sau đó, tôi chán ngấy cảnh mưa rơi trên phim."

Tất cả phim khoa học giả tưởng tuyệt nhất được sao chép qua các phim khoa học giả tưởng khác — Star Wars cuối thập niên 70/đầu thập niên 80 sản sinh ra đầy những câu chuyện không gian nhố nhăng, rác rưởi; The Terminator đúc được cả một kệ trong tiệm cho thuê video những phim rôbô-sát thủ; Alien giải phóng ra một thiên hà những quái vật phá hủy tàu không gian. Nhưng Blade Runner nổi bật không chỉ vì ảnh hưởng của nó mà còn vì khả năng nhìn thấy trước của nó. Hãy nghĩ về những ngọn đèn hoạt hình tô điểm cho tòa nhà Trung tâm Thương mại Quốc tế Hồng Kông, hoặc tòa tháp Wilshire Grand mới khai trương của Los Angeles có cột sống phát sáng. Rảo qua các khu trung tâm Manhattan hoặc Tokyo, với màn hình đèn LED và các quảng cáo chiếm lấy bầu trời. Chúng là loại cảnh quan tấn công ý thức đã trở thành hiện thân cho khái niệm chung của chúng ta về "tương lai", và mặc dù những nhà thiết kế ra chúng chẳng có thứ gì khác trong đầu ngoài một bộ phim khoa học giả tưởng mười năm trước là chuyện không có gì nghi ngờ rồi đó, rất khó nhìn chúng mà không thắc mắc rằng ảnh hưởng của Blade Runner bắt đầu ở đâu và kết thúc nơi nào.

Cảnh quan thành phố trong Blade Runner đã trở thành khuôn mẫu văn hóa-thị giác của chúng ta về tương lai

"Blade Runner đã thay đổi cách nhìn thế giới và cách chúng ta nhìn thế giới,” William Gibson nói. Bố già nổi tiếng của thể loại cyberpunk* bước ra khỏi rạp chiếu, bàng hoàng rằng hình ảnh của nó đã "hút sạch bầu không khí của cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi" — tiện thể nói luôn, cuốn Neuromancer đã trở thành cuốn tự điển của tin tặc — mặc dù cuối cùng một thập niên sau đó ông đã nắm bắt bộ phim đầy đủ và đã hiểu tại sao nó lại có ảnh hưởng đến thế. Giờ đây ông nói, "Đúng là kinh điển. Và nó đã trở thành khuôn mẫu văn hóa-thị giác của chúng ta về tương lai."

Di sản lâu bền nhất của Blade Runner có thể là cái sự lửng lơ không bao giờ được giải quyết của bộ phim: Thực ra thợ săn người nhân bản Deckard có phải là một người nhân bản không? Bao thập niên rồi ‘fan’ đã tranh cãi câu hỏi này, được kích thích bởi những phim mới mà Scott đã phát hành nhiều năm qua để làm sắc nét và làm rõ tầm nhìn ban đầu của ông. (Có vẻ sự đồng thuận là: Đúng, Deckard là người nhân bản... có lẽ thế.) Bất kể bạn ở bên nào, đây là loại tình huống lúng túng hiện sinh chỉ càng dẫn đến lúng túng nhiều hơn — về cách chúng ta định nghĩa "con người"; về việc liệu những đặc điểm của chúng ta có phải là độc nhất vô nhị không; về việc chúng ta có thể tin tưởng ký ức của mình đến mức nào.

Nhà viết tiểu thuyết khoa học giả tưởng Madeline Ashby, chuyên về rôbô và trí tuệ nhân tạo, nói: "Một bộ phim mơ hồ: Liệu anh ấy là hay không là người nhân bản, và chuyện đó có quan trọng không? Đó là về bạn là ai, và bạn có mặt trên đời để làm gì, và những ký ức nào là quan trọng đối với bạn." Ford nói thêm: "Có bao giờ người ta biết được làm sao mình có mặt ở đây — về cách bạn được tạo ra?"

Rick Deckard của Ford là thợ săn người nhân bản đã phải lòng người nhân bản Rachael (Sean Young, trái): Những con người tìm kiếm nhân thân hiện sinh như thế là lý do vì sao Blade Runner đi từ bị ruồng rẫy trở thành sấm truyền

Những con người tìm kiếm nhân thân hiện sinh như thế là lý do vì sao Blade Runner đi từ bị ruồng rẫy trở thành sấm truyền. Và cũng là lý do tại sao Scott bao lâu nay đã hy vọng thêm một chương mới vào thiên truyện này. Ông nói, "Luôn còn có một câu chuyện Blade Runner nữa."

***

MỘT TỐI ĐẦU NĂM 2011, ngay khi ông sắp khởi quay Prometheus — lần đầu tiên trở lại loạt Alien kể từ khi ông cho ra mắt năm 1979 — Scott có buổi ăn tối kéo dài ba tiếng đồng hồ ở London với hai nhà sản xuất Broderick Johnson và Andrew Kosove. Công ty Alcon Entertainment của họ vừa mới phất với những bộ phim thành công đình đám như The Blind Side, The Book of Eli, và Dolphin Tale, và họ đã dành cả năm trời lặng lẽ thu tóm quyền sản xuất một phim Blade Runner mới. Nhà đạo diễn có quan tâm đến việc tham gia cùng họ để thảo luận về một phần tiếp theo không? "Ridley nói, ‘Tôi chờ đợi cuộc gặp này đã 35 năm,’" Kosove nhớ lại.

Không lâu sau đó, Hampton Fancher đang ngồi trong căn hộ ở Brooklyn thì điện thoại reo: Xin hãy giữ máy chờ Ridley Scott. Nhiều năm qua hai người đã không nói chuyện, nhưng với việc vị đạo diễn này một lần nữa lại thử nghiệm chuỗi phim Blade Runner, ông muốn biết liệu Fancher có thể bay đến London để bàn luận ý tưởng không. "Tôi lập tức nói, 'Ồ, cuối cùng ông đã chịu xuống nước rồi,’" Fancher nói về đối tác thường xuyên gây gổ cũ của mình. “Và ông ấy cười.” May sao, lúc đó Fancher đang viết một truyện ngắn mà nhân vật chính cuối cùng đã trở thành đặc vụ K. của 2049. Những trang truyện ngắn đó cuối cùng đã được biến thành cách giải quyết và một kịch bản ngắn, sau đó chuyển sang một nhà biên kịch tên là Michael Green, lúc bấy giờ chủ yếu được biết đến với tác phẩm truyền hình. Kịch bản thành quả bí mật đến mức có lúc nó được đặt mật danh là Acid Zoo, dựa theo câu chuyện mà Fancher thích kể về thời gian ông chơi thuốc ảo giác LSD và nhìn chằm chằm vào mấy con khỉ đột. Thậm chí ngay từ đầu Scott và Fancher đều nghĩ đến Gosling vào vai đặc vụ K, và Scott khẳng định giữ Ford quay lại trong phát triển của kịch bản. Trong một cuộc phỏng vấn hồi năm 2015, Scott kể lại rằng khi lần đầu tiên ông đề cập ý tưởng về phim 2049 với Ford, nam diễn viên nói, "Vớ vẩn."

Rick Deckard của Harrison Ford trong Blade Runner năm 1982

Ford bảo, "Tôi không nhớ mình nói vậy, nhưng tôi không biết lúc anh ấy nói thì tôi đã uống cà phê chưa. Kịch bản là điều thuyết phục tôi."

"Ai nhập cuộc thảy đều e ngại," biên kịch Green nói, anh có bốn dự án lớn khác trong năm 2017 (American Gods, Logan, Alien: Covenant, và Murder on the Orient Express). "Triển vọng lặn trở vào bộ phim yêu thích của nhiều người, có cả tôi trong đó — chúng tôi đều muốn đảm bảo mình đang làm đúng. Đừng đùa với lửa, và đừng chơi với diêm; bạn đang chơi với pháo M-80 ở sân sau, và bạn đã mất ngón tay cái rồi."

Sau đó, một sự đình trệ. Năm 2014, cam kết đạo diễn một phim khác của Scott đã làm rõ rằng ông sẽ không thể chỉ đạo 2049. Thay vì vậy, ông trở thành điều hành sản xuất, và Johnson và Kosove tiếp cận Villeneuve. Vào thời điểm đó, Villeneuve vẫn chưa là cái tên cửa miệng: Anh trải qua một thập niên làm một loạt các phim gai góc tuyệt vời tê tái mà quặn thắt, như phim chính kịch chiến tranh có tầm ảnh hưởng Incendies (ái chà), phim bắt cóc-trẻ em Prisoners 2013 (ui), và bộ phim ly kỳ nghẹt thở về cuộc chiến chống ma túy Sicario năm 2015 (ôi trời). Đấy là những bộ phim trong đó bạo lực như mầm bệnh, lây lan qua cơ thể của một người hoặc toàn bộ lịch sử của một quốc gia với những hậu quả tàn phá lâu dài — nhất là đối với các nhân vật ở đầu cuối. Và với bộ phim Arrival được đề cử Phim hay nhất năm ngoái — về một nhà ngôn ngữ học (Amy Adams) giao tiếp với một cặp đôi người ngoài hành tinh giống bạch tuộc — Villeneuve đã chứng tỏ anh là một trong số ít nhà làm phim có thể làm phim khoa học giả tưởng đem lại cảm nhận kỳ ảo và thực đến cùng cực. Kosove, đã sản xuất Prisoners, tin rằng tính hai mặt là cần thiết cho 2049. "Blade Runner luôn đặt trong thể loại khoa học giả tưởng, nhưng chúng tôi thực sự cho rằng nó là phim ‘noir’ nhiều hơn," anh nói. "Và nếu bạn đã xem Prisoners Sicario, bạn biết ngày nay không có nhà làm phim nào làm phim ‘noir’ hay hơn Denis cả."

"Thời tiết đã giúp tôi nghĩ ra rất nhiều cho bộ phim này," đạo diễn Denis Villeneuve nói. "Tôi bắt đầu từ giả thuyết rằng hệ sinh thái đã sụp đổ, và tôi bắt đầu xây dựng một Los Angeles mới."

Nhưng Villeneuve có một số lý do (rất con người) để không nhận công việc. Anh vừa hoàn thành Sicario và sắp bắt đầu Arrival, và anh không chắc mình có thể đảm nhận phim khác được ngay hay không. Vả lại, Blade Runner là một trong những bộ phim yêu thích của Villeneuve, và anh nghi ngờ rằng việc thâm nhập lại thế giới phức tạp của bộ phim có thể là "một ý tưởng siêu tồi tệ." Ban đầu anh nói không, nhưng khi các nhà sản xuất trở lại với một đề nghị khác để đáp ứng lịch làm việc của Villeneuve, anh thay đổi ý định và quyết định chấp nhận rủi ro. "Tôi tự nhủ: “Nếu có lúc nào tôi làm một phim quy mô cỡ này, nhất định phải là phim có ý nghĩa với tôi."

Về sau, tôi hỏi Scott điều gì về Villeneuve khiến ông thoải mái giao chìa khóa Blade Runner yêu quí của ông.

“Tôi đâu có thoải mái,” ông đáp.

Không ư?

“Không. Nhưng chờ tôi đạo diễn chỉ gây cản trở bộ phim mà thôi, và cho đến giờ, Denis là lựa chọn tốt nhất của chúng tôi." Ông mỉm cười, trước khi nói thêm một cách khó hiểu, "Phải mất một mới thấy một."

Một hộp đêm quyến rũ như Vegas trong Blade Runner 2049

Việc sản xuất bắt đầu ở Budapest vào mùa hè năm 2016, và trong gần 100 ngày, việc quay phim choán hết một cơ sở 10 tầng như khu học xá. Không giống hồi làm bộ phim Blade Runner đầu đầy tai tiếng, mà Ford từng miêu tả là "chó lắm", trường quay của Villeneuve sôi nổi, hiệu quả một cách dễ thương. (Ít ra là vào ngày tôi đến thăm.) Ngay cả khi quay hết “đúp” này đến “đúp” khác cái cảnh phim mà Gosling cứ sợ con chó tấn công, Ford có vẻ thực sự... khoái chí? "À, nếu trông tôi có vẻ thế, thì chắc là thế," anh nói, giọng anh vẫn đáng tin cậy. "Tôi không mất quá nhiều thời gian để cố làm ra vẻ như mình đang vui."

Hàng triệu đôla đổ vào việc tái hiện thần thái của bộ phim gốc — và tất cả những gì không quá dựa vào thủ thuật phông xanh. "Rất nhiều phim khoa học giả tưởng trông na ná nhau, bởi vì hiệu ứng đó được làm như vẹt,” nhà quay phim của 2049, Roger Deakins, cho biết. "Chúng tôi khao khát tạo ra thế giới của riêng mình." Ví dụ, bước tới ngó qua khung cửa của Deckard, và bạn thấy những tòa nhà cao chọc trờ mờ mờ bao quanh nhà ông là phông nền minh họa cao chót vót bao quanh trường quay. Gần đó, một hộp đêm quyến rũ khổng lồ như Vegas, trong đó một Elvis thời gầy nhom, vây quanh là những cô gái trang điểm lông vũ và chai rượu champagne, ngân nga ca khúc Can’t Help Falling in Love. Bên ngoài, có một khoảnh đất lớn lô nhô những cột xà hoen rỉ và thùng dầu, cùng một nhà kho mà các thành viên đoàn phim vứt những "spinners" — những chiếc xe cảnh sát giống như con bọ mà Deckard sử dụng để di chuyển trong phim đầu và đã được nâng cấp cho phần tiếp theo. "Chúng tôi muốn chiếc xe được định hình đồ họa, góc cạnh mạnh mẽ hơn,” nhà dựng cảnh Dennis Gassner, đã giám sát việc thiết kế chiếc ‘spinner’ mới, nói: "Đó là một thế giới khắc nghiệt hơn trong phim đầu, cả về môi trường lẫn phong cách nghệ thuật."

Một chiếc 'spinner' mới được định hình đồ họa, góc cạnh mạnh mẽ hơn cho phần tiếp theo

Sự khắc nghiệt đã tạo dấu ấn trong rất nhiều tác phẩm trước của Villeneuve — mặc dù chính vị đạo diễn này cũng không hiểu từ đâu mà ra. Nếu phim của anh cứ theo một khuôn mẫu, dù là ngẫu nhiên, "thì rõ ràng điều đó đang nói rất nhiều về tôi," anh nói. Có thể, anh đoán, "Tôi là một kẻ lập dị thường xuyên bị sốc với thế giới." Đó là một phần lý do khiến anh bị cuốn hút vào một tương lai chán nản được khắc họa trong Blade Runner của Scott. Đâu phải là quá gàn dở khi cố gắng vạch ra mối liên hệ giữa VidPhone của Deckard trong Blade Runner với FaceTime của chúng ta; từ rắn và cú nhân tạo với những sinh vật được biến đổi trong phòng thí nghiệm; từ người nhân bản kiểu-cận chiến đến rôbô quân sự được triển khai trên khắp thế giới. Thật vậy, bộ phim đầu không chỉ làm tiền đề cho tương lai khả dĩ của chúng ta mà còn là cảnh báo về mức độ tàn bạo khó sống của tương lai đó.

“Sự dữ dội duy nhất tôi đã gặp trong đời mình là mùa đông,” Villeneuve nói vào một buổi chiều mùa hè trong văn phòng nhỏ kiểu Kubrick-trắng tại cơ sở của Sony ở Los Angeles, vài tháng sau khi 2049 đóng máy. Tuy cái nắng xế chiều chiếu cửa sổ, vị đạo diễn không thể không nghĩ đến thời tiết khắc nghiệt mà anh trải qua hổi nhỏ — sáu hoặc bảy tháng tuyết rơi, rúc trong nhà bố mẹ ở một thị trấn nhỏ vùng nông thôn Quebec, từ cửa sổ nhà bếp có thể nhìn thấy một nhà máy điện hạt nhân. "Và thời tiết đã giúp tôi nghĩ ra rất nhiều cho bộ phim này. Tôi bắt đầu từ giả thuyết rằng hệ sinh thái đã sụp đổ, và tôi bắt đầu xây dựng một Los Angeles mới."

Rất nhiều công nghệ ở trung tâm của cả phim đầu lẫn phần tiếp theo — trí tuệ nhân tạo tiên tiến, công nghệ biến đổi gene — không còn chỉ là hư cấu nữa

Trong phòng biên tập gần đó, Villeneuve cho tôi xem một cảnh ngắn từ 2049, trong đó một đặc vụ K người đầy máu me lái chiếc spinner của anh bay qua một loạt ngôi nhà thấp, san sát, trước khi hướng đến tổng hành dinh Sở cảnh sát Los Angeles mờ mờ phía xa. Khi vào bên trong, anh được đưa vào một căn phòng màu trắng và phải trải qua cuộc kiểm tra căng thẳng hậu chấn thương tâm lý, một nhân vật vô hình tra hỏi anh. Sau đó anh làm một chuyến thăm trung tâm thành phố Los Angeles, trong tuyết rơi tầm tã. Ngay cả trên màn hình nhỏ, cảnh phim đó thật hấp dẫn, tao nhã, bí hiểm. Đó là Blade Runner.

Rối loạn hệ sinh thái cũng đóng một vai trò trong bộ phim gốc, vốn được đặt trong một thế giới mà động vật thì tuyệt chủng. Nhưng những cảnh báo về môi trường của bộ phim, Fancher nói, "được thì thầm. Tôi không chắc người ta có nghe được không." Cách tiếp cận của Villeneuve lớn tiếng hơn: Los Angeles của 2049 là nơi có hàng rào rộng lớn, được gọi là Bức tường Sepulveda, chống lại nước biển dâng lên. Với đủ loại khủng hoảng môi trường trong đời thực mà California đã gánh chịu mấy năm qua — hạn hán và cháy rừng, với các cuộc tranh luận tất yếu về đê chắn sóng — có cảm giác mọi thứ quá gần với thực tại của chúng ta rồi. Đủ để bạn băn khoăn liệu khán giả có sẵn sàng cho một bộ phim về tận thế gần kề từ một đạo diễn nổi tiếng có thủ pháp không hề nhẹ nhàng.

Nếu khán giả phải mất nhiều năm mới kết nối được với tương lai trong Blade Runne đầu, thì họ sẽ phản ứng thế nào với phiên bản sự tình trở nên còn tồi tệ hơn nữa của Villeneuve?

Phim ra rạp vào thời gian gần cuối của một trong những năm bồn chồn nhất, thừa mứa nỗi sợ hãi nhất trong ký ức gần đây. (Tất nhiên, những nỗi sợ của bạn có thể hoàn toàn trái ngược với những nỗi sợ hãi của tôi — vậy mới làm cho mọi chuyện càng đáng sợ hơn.) Rất nhiều công nghệ ở trung tâm của cả phim đầu lẫn phần tiếp theo — trí tuệ nhân tạo tiên tiến, công nghệ biến đổi gene — không còn chỉ là hư cấu nữa. Cái tương lai hậu tận thế từng xa xôi đó dường như sát rạt đời sống thường nhật, có nghĩa là bộ phim tiếp theo của Villeneuve không chỉ là một cuộc phiêu lưu khác nữa trong thế giới Blade Runner; mà đó là một sự nhắc lại đen tối hơn về tương lai của chính chúng ta có thể ra sao. Fancher nói về thế giới tương lai mà ông, Scott, và Philip K. Dick dựng lên rất nhiều năm trước, "Sẽ có người nhân bản."

Chúng ta vẫn chưa tới đó. Nhưng chính sự sát sạt này có thể giúp 2049 thành công trong khi Blade Runner đầu tiên đã thất bại. Khoa học giả tưởng mạnh mẽ nhất luôn sử dụng cảnh quan tương lai để giúp chúng ta xử lý những nỗi lo lắng của chúng ta về hiện tại, và những kết quả ác mộng mà khán giả không muốn can dự hổi năm 1982 giờ đây được thảo luận, tranh cãi, và số người can dự vào ngày càng tăng hơn bao giờ hết. Người Mỹ ngày nay cảm nhận những nỗi lo lắng hiện sinh ở cốt lõi thế giới Blade Runner sâu sắc hơn và toàn diện hơn hầu hết bất cứ ai hồi năm 1982 có thể tưởng tượng được, và do đó một phần tiếp theo tăng gấp đôi về thế giới hậu tận thế có thể cộng hưởng theo những cách mà phim đầu không bao giờ làm được. Gosling nói, "Sức mạnh của khoa học giả tưởng, và điều tích cực về nó, là bạn có thể trải nghiệm tình huống xấu nhất mà không phải thực sự sống qua." Và khi bạn cân nhắc rằng Blade Runner 2049 ra mắt một vài tháng sau những bom tấn giả tưởng như Alien: Covenant, Logan, và War for the Planet of the Apes, rõ ràng là số phận sáng chói mà Flash Gordon đã có sẽ bốc hơi. Thời buổi bây giờ, dường như chúng ta thích các kịch bản trường hợp tồi tệ nhất, một phần bởi vì khi so ra thì cuộc sống hiện tại của chúng ta có vẻ rất lành.


Như một người máy từ Blade Runner diễn giải: Thật là một trải nghiệm để sống trong sợ hãi, cả trong khoa học giả tưởng và trong hiện thực trần tục thiếu sót của chúng ta. Giống như bộ phim đầu tiên, Blade Runner 2049 có thể giúp làm sáng tỏ chuyện sẽ đi về đâu, và cho phép chúng ta một lần nữa nhìn thấy những thứ mà chúng ta sẽ không tin — bất luận những thứ đó có vẻ không giống con người đến thế nào đi nữa.

Dịch: © Hải Đăng @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Wired


* Cyberpunk xuất hiện từ những năm 1980, ghép từ hai từ cybernetics (điều khiển học) và punk (giang hồ). Thuật ngữ này do nhà văn Bruce Bethke sáng chế năm 1980 khi xuất bản cuốn truyện ngắn Cyberpunk. Khung thời gian của thể loại này thường là tương lai gần, bối cảnh là xã hội hậu tận thế nghèo khổ, khốn cùng. Các chủ đề thường gặp bao gồm công nghệ thông tin phát triển vượt bậc, đặc biệt công nghệ internet, không gian mạng được hiển thị thành hình ảnh, trí thông minh nhân tạo, điều khiển học, xã hội hậu dân chủ nơi các tập đoàn có sức ảnh hưởng hơn chính phủ. Nhân vật chính thường mang vẻ bất mãn. Blade Runner được coi là ví dụ điển hình cho dòng cyberpunk. (Theo bookism.com.vn)