Cũng không hề vô lý khi nói Studio Ghibli là đơn vị sản xuất đơn lẻ lỗi 
lạc vững vàng nhất trong lịch sử phim điện ảnh, dù là hoạt hình hay 
không.
        
            
            
Được thành lập năm 1985 bởi hai đạo diễn / hai huyền thoại sống Isao 
Takahta và Hayao Miyazaki (những người mà nhìn chung phim của họ đồng 
nghĩa với chính bản thân công ty), Studio Ghibli trở thành một thể chế 
đích thực trên mảnh đất quê nhà – thật muốn gọi công ty này là “Pixar 
của Nhật Bản”, nhưng làm như vậy sẽ đánh giá vô cùng thấp sự đóng góp 
của Ghibli cho tính cách văn hóa Nhật Bản, và tính phổ biến của các nhân
 vật của Miyazaki trên đất nước họ. (Hình dưới do tác giả chụp lần gần 
đây nhất tác giả ở Kyoto, tại một cửa hàng nằm ngay cạnh ngôi đền nổi 
tiếng nhất của thành phố này).

Cuối cùng thì, điểm khác biệt lớn nhất giữa Pixar và Studio Ghibli có lẽ
 là Studio Ghibli không làm phim dở. Những ngày xa xưa, Pixar nổi tiếng 
một cách xứng đáng với danh sách tác phẩm của mình (cho đến khi 
Cars
 cán qua di sản này như tông xe trên phố), còn Ghibli tồn tại như một 
sức mạnh trong nền công nghiệp này phần nào bởi ngay cả sự những tác 
phẩm nhỏ và kỳ quặc của họ rõ ràng cũng được tạo ra không có lấy một 
khiếm khuyết. Có lẽ danh tiếng của xưởng phim này bay xa bởi phương pháp
 vẽ tay khắt khe của họ, hoặc có thể chỉ bởi họ không thuê Larry the 
Cable Guy lồng tiếng cho một chiếc xe cẩu đặc biệt. Dù gì đi nữa, sự cam
 kết về chất lượng của Ghibli vẫn chưa ai sánh bằng.
Tuy nhiên, 
hình ảnh của Ghibli ngày nay yếu thế một cách bất thường, bởi Miyazaki 
có tuổi (nhưng vẫn bận rộn sáng tạo) chỉ đạo diễn hai trong số bốn phim 
gần đây nhất, trong khi sự nổi lên của những nhân tố đóng góp mới – như 
con trai của ông, Goro Miyazaki – theo lẽ tự nhiên đe dọa làm phai nhạt 
danh tiếng của thương hiệu này. Hayao Miyazaki sẽ luôn được nhắc đến như
 là Steve Jobs của Studio Ghibli, nhưng một số phim do công ty ông sản 
xuất hiện giờ có vẻ có mang dấu ấn ảnh hưởng của ông hơn là có sự tham 
gia của ông.

Áp phích phim From Up on Poppy Hill
Bộ phim gần đây nhất của Studio Ghibli, 
From Up on Poppy Hill 
(được phát hành hạn chế vào ngày 15/3), mơ hồ thể hiện cho tương lai 
công ty này. Do Hayao Miyazaki viết kịch bản và được con trai ông đạo 
diễn (một màn “chuyền đuốc” đích thực), bộ phim khiêm nhường tâm lý lãng
 mạn đầy hoài niệm tiếc nuối này kể câu chuyện về đôi thiếu niên cố gắng
 gìn giữ ngôi nhà câu lạc bộ của trường họ với bối cảnh Thế vận hội 
1964. Nó không phải là một trong những phim mạnh nhất của Ghibli, nhưng 
cũng không phải một trong những phim tệ nhất. Cuối cùng, có lẽ những 
ngày đẹp đẽ nhất đã ở lại phía sau, nhưng tương lai vẫn sáng sủa như 
thế. 
Với ý nghĩ như vậy, Film.cm xếp hạng bảy phim hay nhất của 
Studio Ghibli đến nay  - họ chỉ làm 18 phim, vì vậy xếp hạng 10 sẽ bắt 
buộc đưa vào hơn nửa tổng số tác phẩm của họ. Hãy xem đây như là một 
nhắc nhở về những gì Ghibli đã thực hiện được, và tính quan trọng về sự 
thành công nối tiếp của họ đối với toàn thể thế giới hoạt họa vẽ tay.
7. ONLY YESTERDAY (1991)

Tác phẩm quyến rũ giản dị năm 1991 của Isao Takahata là một trong số 
những viên ngọc ít được biết đến trầm trọng nhất, một phim hoạt hình u 
hoài khác thường đã hòa trộn những giấc mơ thời thơ ấu với những thất 
vọng tuổi trưởng thành. 
Câu chuyện của một người phụ nữ 27 tuổi 
tên Taeko lên một chuyến tàu siêu tốc từ Tokyo về căn nhà ngoại ô của 
gia đình mình, và chìm trong những hoài niệm về tuổi trẻ của cô trên 
đường. Hành trình hoài niệm của cô chỉ càng sâu sắc thêm khi cô thực sự 
đến nơi, mặc dù phim gần như không đưa ra bất cứ một nguyên nhân chính 
thức nào về việc tại sao cảnh này được vẽ. Tất nhiên, điều mà Takahata 
hiểu là bộ lọc, dụng cụ sân khấu, thiết kế trường quay chỉ có thể đóng 
góp vào bề mặt của quá khứ, trong khi tạo ra chuyện đời từ đầu đến cuối 
cho phép hồi ức của Taeko trở thành mảnh đất mà mỗi tấc mỗi thước đều 
thật như hiện thực của cô.
Một lưu ý hơi có tính tranh cãi, tác giả liều nói rằng 
Only Yesterday gần như phủ nhận hoàn toàn sự cần thiết có thêm một phim Ghibli tương tự (nhưng viễn tưởng hơn) của Yoshifumi Kondo, 
Whisper of the Heart.
6. CASTLE IN THE SKY (1986)

Bộ phim có cái tên không may nhất của Studio Ghibli (phim ban đầu được 
đặt tên theo tên pháo đài bay Laputa, được dịch sát nghĩa thành “gái 
điếm” trong tiếng Tây Ban Nha) cũng là phim vui nhất của họ… khi so với 
điều bạn trông đợi với một dự án ban đầu được gọi là “Gái điếm”. Được 
rồi được rồi, Laputa cũng bắt nguồn từ miền đất bay khổng lồ trong 
Gulliver’s Travels,
 thứ mà Miyazaki đã chuyển thành một vùng đất hư cấu nơi cậu bé khỏe 
mạnh có tên Pazu phải đưa một quý cô trẻ tuổi tên Sheeta, người rơi từ 
hư không vào cuộc đời cậu theo đúng nghĩa đen, đến đó.
Castle in the Sky có lẽ là phim nhẹ nhàng nhất Miyazaki đã từng đạo diễn (ngay cả 
Ponyo
 cũng ám chỉ đến sự khải huyền), một câu chuyện phiêu lưu bằng tàu 
chuyển động nhờ một thứ năng lượng động lực hiếm – phim của Ghibli đã 
dàn một hiệu ứng gợn sóng khi các nhân vật chuyển động tốc độ cao với 
Castle in the Sky, tóc và vải bay trong gió như thể ngòi bút của Miyazaki đang đi những nét chữ R của mình.
Thông tin thêm: Bản lồng tiếng Anh của Disney có sự góp mặt của cả James Van Der Beek và Cloris Leachman.
5. MY NEIGHBOR TOTORO (1988)

Có lẽ phim này gắn với thương hiệu Studio Ghibli nhiều nhất, 
My Neighbor Totoro nằm trong số những phim biểu tượng nhất trong 30 năm qua. 
Một
 câu chuyện đơn giản được phát triển hơi quá lên thành 86 phút, tác phẩm
 cổ điển có tính chất cột mốc này theo chân hai chị em vào ngày sau khi 
người bố chuyển chúng đến một căn nhà ngoại ô cũ để gần với mẹ chúng 
hơn, đang nằm viện vì một căn bệnh rối loạn chưa biết (có lẽ là ung 
thư). Mỗi cô nhóc đối diện với bệnh tật của mẹ mình theo cách riêng, 
nhưng cả hai đều tìm thấy sự thanh thản trong mối quan hệ bạn bè vừa nảy
 mầm với sinh vật cư trú trong khu rừng địa phương.
Trong số 
những sinh vật đó có Totoro, nhân vật nổi tiếng nhất của Ghibli – hãy 
hình dung chỉ một nhân vật duy nhất mà pha trộn được tính thuyết phục 
vững chắc của Buzz Lightyear, sự thu hút đầy tính thời đại (và đáng yêu)
 của Grumpy Cat và tác động định hình của chuột Mickey và bạn đã tiến 
gần đến việc hiểu được vị thế của chú quái vật mềm mại này trên Đất nước
 mặt trời mọc. Mặt khác, Totoro giống như phiên bản Nhật Bản của The 
Beatles, nếu The Beatles là một sinh vật giống thỏ khổng lồ cưỡi trên 
một chiếc xe buýt hình mèo và để bạn ngủ trên bụng họ...
My Neighbor Totoro
 gần như là một phim không kịch bản (mặc dù điều này không rõ ràng), với
 phần lớn thời gian cống hiến cho việc các cô nhóc khám phá thế giới 
xanh đẹp lộng lẫy xung quanh nhà chúng – khi câu chuyện lên đến đỉnh 
điểm trong một phân cảnh đặc biệt, một cảnh điển hình trong đó một trong
 hai cô bé cho Totoro mượn chiếc ô đỏ của mình khi họ chờ tại một bến xe
 buýt đẫm mưa (khi xe buýt đến, đó là một con mèo bay khổng lồ có sườn 
biến thành chỗ ngồi, bởi tại sao không chứ?). Với tất cả những điều kỳ 
quái tình cờ gặp, căn bệnh của mẹ trở thành bí ẩn khó giải đáp nhất của 
hai cô bé, thế giới ma thuật các em gặp giúp các em hiểu rõ thế giới 
đang sống. Một phần của việc lớn lên là hiểu ra rằng cuộc sống không 
phải lúc nào cũng phát triển theo hướng bạn cần, và mỗi người đối mặt 
với điều này theo cách riêng của họ. 
My Neighbor Totoro gợi ý rằng, dù trẻ hay già, thì tìm sự yên bình còn hơn tìm kiếm câu trả lời vô ích.
4. PRINCESS MONONOKE (1997)

Princess Mononoke giữ một vị trí đặc biệt trong danh sách tác 
phẩm của Ghibli, bởi bộ phim mạnh mẽ và có tính anh hùng ca nhất của 
Miyazaki này có lẽ đã một mình thực hiện trách nhiệm thức tỉnh một thế 
hệ yêu điện ảnh Mỹ về kỳ quan của phim hoạt hình Nhật Bản. 
Xoay 
quanh một công chúa chiến binh cùng tên phim, một nữ thợ săn dữ dội và 
hoang dã có thể phá hủy hoàn toàn những hình tượng tương tự ngoan ngoãn 
của Disney, 
Mononoke giới thiệu với chúng ta một thế giới xanh 
tươi trong đó những vị thần rừng khổng lồ bị con người ở Iron Town làm 
nhơ nhuốc và vũ trang hóa, nỗi thèm khát công nghiệp của những người này
 đang hủy hoại những tài nguyên thiên nhiên nơi đây.
Hơn 20 năm 
thực hiện và kéo dài 133 phút (xứng đáng, nhưng dài bất thường khi so 
với phim hoạt hình), tuyệt tác này của Miyazaki có lẽ là lời tuyên bố rõ
 ràng nhất của ông về mối quan hệ mỏng manh giữa kiến thiết văn minh và 
môi trường, một ý niệm vang mãi trong suốt chiều dài sự nghiệp của ông. 
Được kể một cách mạnh mẽ, hình ảnh cuốn hút và dễ dàng tiếp cận, 
Mononoke trở
 thành một phần quan trọng của giới hoạt hình Nhật khi được Miramax lựa 
chọn để phân phối tại Mỹ (Miyazaki đã gửi cho Harvey Weinstein một bức 
thư ngắn gọn nổi tiếng đơn giản viết là: “Không cắt xén”). Neil Gaiman 
được thuê để gọt giũa phần lồng tiếng, Keith David tham gia lồng tiếng 
vị thần lợn rừng khổng lồ, và cả hai việc này đều được thực hiện tuyệt 
hảo. Hành trình tại Nhật của phim này có thể là một thất bại, nhưng mỗi 
phim của Miyazaki từ đó đều có sự ra mắt rầm rộ. 
3. GRAVE OF THE FIREFLIES (1988)

Không nhiều người biết rằng, dịch theo nghĩa đen tên bộ phim đau lòng của Isao Takahta 
Grave of the Fireflies là 
Lấy hết nước mắt của mi, loài người bé nhỏ
 (xin hãy cập nhật trang Wikipedia cho phù hợp). Tại sao Ghibli quyết 
định thay đổi tiêu đề của phiên bản ra mắt tại Mỹ là một bí ẩn khuất 
bóng theo dòng chảy thời gian, nhưng ảnh hưởng tàn phá của tác phẩm của 
Takahata khó có thể dịu bớt với sự xử lý thi vị của phim.
Grave of the Fireflies
 là dạng phim làm cho toàn bộ cách thức thực hiện đều phù hợp, chứng 
minh một lần và cho tất cả rằng phim hoạt hình có thể cộng hưởng với sức
 mạnh nhân văn giống như phim người thật. Câu chuyện nhỏ của một cậu 
thiếu niên và em gái cậu cố gắng tồn tại sau khi trở thành trẻ mồ côi vì
 cuộc thả bom xuống Kobe năm 1945, bi kịch của Takahata là một câu 
chuyện ngụ ngôn theo phong cách tân hiện thực ở mức độ cao nhất, pha 
trộn tính chi tiết giản đơn của Vittorio De Sica với sự yêu mến trẻ em 
của Vittorio De Sica. Takahata có thể không có ý định làm một phim phản 
chiến (ông nói rằng phim này là để tìm kiếm sự đồng tình qua các thế 
hệ), nhưng 
Grave of the Fireflies là một trong những phim phản chiến xuất sắc nhất.
2. PORCO ROSSO (1992)

Hai phim xuất sắc nhất mà Studio Ghibli đã từng làm đều liên quan đến con người bị biến thành lợn, trong cả hai thì chỉ có 
Porco Rosso có dũng cảm cho chú lợn của mình một bộ ria. Một sự giao thoa đáng yêu không hồi kết giữa 
Top Gun và 
Babe (không thể chối cãi, bạn thử nghĩ xem), điều duy nhất kỳ lạ hơn việc 
Porco Rosso tồn tại là phim quá tuyệt.
Năm
 1929, thế giới chìm trong chiến tranh, và cướp biển làm chủ bầu trời. 
Đó là lúc chúng ta lần đầu tiên gặp người lợn cùng tên tác phẩm, một phi
 công chiến đấu át chủ bài, một gã mập mạp đồng thời cũng là một thợ săn
 hào phóng ôn hòa, hạ gục những kẻ xấu với chiếc máy bay mui trần của 
mình (một chiếc Piccolo) trên mặt nước xanh thẳm rộng lớn của biển 
Adriatic. Từ tiền đề bất thường này, Miyazaki phát triển một câu chuyện 
tương đối đơn giản về nợ nần, phụ thuộc và tội lỗi của kẻ sống sót, 
không cho phép bối cảnh hỗn loạn toàn cầu đen tối xa rời những mối nguy 
trong thời đại mới rất gần gũi của câu chuyện. Tuy nhiên, tác phẩm hoạt 
hình đặc biệt thú vị này là cuộc phiêu lưu tuyệt vời, đầy các nhân vật 
khó quên và trung tâm là một câu chuyện lãng mạn ngọt ngào đến mức chính
 bạn tích cực cổ vũ cho mối quan hệ giữa người và loài vật.
Phim 
phát triển cùng sức mạnh của người hùng to béo – Porco tự tiết lộ rằng 
bản thân là một người ngưỡng mộ Jean Gabin và kiểu anh hùng không hoàn 
mỹ của ông – và những cuộc không chiến là một trong số những điều thú vị
 nhất trong phim (và phim của Miyazaki tuyệt hơn của 
Flyboys). 
Cuối nhưng không kém phần quan trọng, đáng chú ý là ngay cả những câu 
chuyện có vẻ do nam giới dẫn dắt nhất cũng cố tình trao quyền cho những 
nhân vật nữ - trong thế giới của Porco Rosso, những thợ máy tài giỏi 
nhất đều là nữ, và không cái gì bay tử tế được nếu thiếu họ. 
1. SPIRITED AWAY (2001)

Tác giả muốn thẳng thừng gọi đây là phim hoạt hình xuất sắc nhất từng 
được thực hiện, nhưng tuyên bố kiểu này có vẻ hơi thiếu trưởng thành, 
khi tính đến 
The Croods/
Cuộc phiêu lưu của nhà Crood được lên lịch ra rạp vào tuần trước. 
Spirited Away
 là tác phẩm đầu tiên và lỗi lạc nhất về thế giới ma thuật tối cao, hòa 
trộn tất cả những đề tài có tính quyết định của Miyazaki với một khúc 
nhạc phóng khoáng hoang dã của những phù thủy ác liệt và những linh hồn 
gây rối, khám phá sự đáng sợ của trưởng thành trong một nhà tắm cho các 
linh hồn, nơi mà Chihiro bé bỏng và hoàn toàn đơn giản được chuyển đến 
sau khi bố mẹ em bị biến thành lợn. Một vùng đất ma thuật xây dựng đơn 
giản nhưng tràn đầy những kỳ quan vô tận, tuy nhiên nhà tắm này là một 
việc kinh doanh nhơ nhuốc, ô uế bởi sự độc ác và thèm khát được phá hủy 
bất cứ thứ gì trong sáng nó tìm được. Thân phận Chihiro thực sự gặp 
nguy, bởi em dấn thân vào cuộc chiến cho số phận của mình khi bố mẹ em 
(tốt tính) vẫn hoàn toàn không biết đến sự tranh đấu của con gái mình để
 thích nghi với một thế giới mới lạ lùng. 
Spirited Away
 không rõ ràng và cô đọng như những phim tuyệt vời khác của Studio 
Ghibli – những trải nghiệm của Chihiro khó hiểu, thỉnh thoảng còn không 
giải nghĩa được, và cuối cùng gây xúc động với một nỗi buồn không tưởng.
 Cảnh con tàu ma vĩnh hằng là khoảnh khắc xuất sắc trong lịch sử Ghibli 
(đó là sự thật), nhưng nó cũng quá tuyệt đến mức chỉ cần nghĩ đến chắc 
chắn sẽ đưa bạn đến một nơi tốt đẹp hơn nơi bạn tự vẽ ra cho mình.
Dịch: © Chi Nguyễn @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Film.com

 Hãy chia sẻ ý kiến của bạn về bài viết này trên 
Facebook của chúng tôi