Kết thúc một kỷ nguyên, đúng theo nghĩa đen. Vào ngày 30 tháng 4 năm 
2019, kỷ nguyên Heisei (Bình Hòa) của Nhật Bản, bắt đầu vào năm 1989 với
 việc Nhật hoàng Akihito đăng cơ Ngai vàng Hoa Cúc, sẽ kết thúc với sự 
thoái vị của ông. Một kỷ nguyên mới có tên là “Reiwa” (Lệnh Hòa) sẽ tiếp
 quản từ ngày 1 tháng 5. Đây là một đại lễ cho cả nước Nhật, dẫn đến một
 kỳ nghỉ Tuần lễ Vàng kéo dài 10 ngày lịch sử.
        
            Kỷ nguyên Heisei là một giai đoạn vĩ đại trong lịch sử Nhật Bản, vì 30 
năm qua đã chứng kiến thế giới đón nhận văn hóa Nhật Bản, đặc biệt là 
anime, từ thị trường ngách dành cho ‘dân ghiền’ trở thành loại hình nghệ
 thuật được quốc tế kính trọng. Vì vậy, kết thúc kỷ nguyên Heisei dường 
như là cái cớ hoàn hảo để nhìn lại mười bộ phim hoạt hình hàng đầu đã ra
 đời trong thời gian trị vì của Nhật hoàng Akihito.
Kiki’s Delivery Service (1989/Năm Heisei thứ 1)

   
  
Bây giờ có vẻ không thể hiểu được, nhưng đến năm 1989, Studio Ghibli 
được sùng bái của Hayao Miyazaki, được thành lập năm 1985, vẫn chưa có 
phim nào thành công. 
Kiki’s Delivery Service, câu chuyện về một
 phù thủy trẻ rời nhà đến thành phố lớn, được chuyển thể từ cuốn tiểu 
thuyết cùng tên của Eiko Kadono, cần được bán tốt ở phòng vé bằng không 
hãng phim sẽ gặp rắc rối tài chính nghiêm trọng. Nhưng bộ phim đã làm ăn
 thành công, trở thành phim có doanh thu cao nhất năm Heisei đầu tiên. 
Bộ phim đã thu hút khán giả bằng khắc họa một cô gái trẻ tìm kiếm sự 
độc lập – và thú cưng của cô, chú mèo biết nói dễ thương Jiji, cũng góp 
công.
Only Yesterday (1991/Năm Heisei thứ 3)

  
Bây giờ Hayao Miyazaki có thể là đạo diễn nổi tiếng nhất của Ghibli, 
nhưng khi hãng này được thành lập, đồng sáng lập Isao Takahata là đối 
tác cao cấp hơn, đã chỉ đạo nhiều phim tân-hiện thực, trưởng thành, đầy 
lùi những ranh giới của anime. Trong bộ phim đầu tiên của ông ở kỷ 
nguyên Heisei, 
Only Yesterday, Takahata lần theo cuộc sống của 
một người Tokyo tên Taeko, chuyến đi về nông thôn đưa những ký ức thời 
thơ ấu trở lại (tựa đề tiếng Nhật là 
Omoide Poro Poro, tạm dịch
 là ‘ký ức rơi như giọt mưa’ ). Không có rôbô, cô gái phép thuật hay 
người ngoài hành tinh cơ bắp nào trong tầm mắt, đây là bộ phim hoạt hình
 hoàn hảo cho bất kỳ ai ‘không lậm anime’.
Ghost in the Shell (1995/Năm Heisei thứ 7)

   
  
  
Với internet định hình lại cuộc sống, thập niên 90 là thời mọi người bắt
 đầu suy ngẫm về tương lai nối mạng công nghệ cao sẽ ảnh hưởng đến nhân 
loại như thế nào. 
Ghost in the Shell xuất hiện, bộ phim 
cyberpunk từ nhà làm phim phong cách Mamoru Oshii, pha trộn triết lý 
tương lai nặng nề và các pha hành động người máy hoạt hình tuyệt vời tạo
 ra một kiệt tác anime. Được những nhà phê bình như Roger Ebert bênh 
vực, 
Ghost in the Shell đã thành công đình đám ở nước ngoài và 
thậm chí truyền cảm hứng cho nhà Wachowski tạo ra tác phẩm cyberpunk 
kinh điển của riêng họ, 
The Matrix. Ồ, và bản làm lại người đóng ScarJo vài năm trước tốt nhất là nên bỏ qua.
End of Evangelion / Evangelion 1.0 / Evangelion 2.0 / Evangelion 3.0 
(1997/Năm Heisei thứ 9; 2007/Năm Heisei thứ 19; 2009/Năm Heisei thứ 21; 2012/Năm Heisei thứ 24)

    
        
            
                | Neon Genesis Evangelion: The End of Evangelion (1997)
                     | 
                    
            
    
    
  
  
  
Khó mà nói quá về tác động của loạt phim truyền hình ăn khách 
Neon Genesis Evangelion.
 Phát sóng từ năm 1995 đến 1996, 26 tập phim đã đẩy những gì mà phim anime về một con rôbô khổng lồ có thể làm được, chạm vào những chủ 
đề về sự xa lánh và nỗi sợ hãi sau hai khoảnh khắc lịch sử đau đớn nhất 
trong kỷ nguyên Heisei: vụ tấn công khí độc sarin tại Aum Shinrikyo và 
thảm họa động đất Hanshin, cả hai đều xảy ra vào năm 1995. Bộ phim màn 
ảnh rộng 
End of Evangelion phiêu diêu năm 1997 được dự tính kết thúc câu chuyện, nhưng từ ‘Kết thúc’ trên tựa phim không chính xác – năm 2007 chứng kiến 
Evangelion  1.0
 phát hành, bộ phim đầu tiên trong loạt bốn phần phim điện ảnh chiế rạp 
kể lại kể lại loạt phim truyền hình. Phim thứ tư được chờ đợi từ lâu dự 
kiến sẽ ra mắt năm 2020, biến 
Evangelion trở thành một hiện tượng kéo dài hai kỷ nguyên.
Perfect Blue (1997/Năm Heisei thứ 9)

    
  
Thành thật mà nói, có thể chọn bất kỳ bộ phim nào của đạo diễn Satoshi Kon, nhưng 
Perfect Blue,
 có lẽ là bộ phim hay nhất, hoàn hảo nhất của anh. Một câu chuyện ly kỳ 
kiểu Hitchcock, sự tự tin và thành thạo của nó thậm chí còn đáng chú ý 
hơn khi bạn biết 
Perfect Blue là tác phẩm đầu tay của đạo diễn.
 Câu chuyện về một thần tượng nhạc pop và một người hâm mộ có nỗi ám ảnh
 đi quá xa, bộ phim là sự phê phán hệ thống văn hóa đại chúng Nhật 
Bản và một phim kinh dị tâm lý phụ nữ-gặp-nạn ấn tượng sâu sắc. Buồn 
thay Kon đã qua đời vào năm 2010 khi mới 46 tuổi, nhưng vẫn kịp để lại 
cho chúng ta nhiều tác phẩm anime kinh điển khác, bao gồm 
Millennium Actress và 
Paprika.
Pokémon: The First Movie: Mewtwo Strikes Back (1998/Năm Heisei thứ 10)

Khi nói về di sản văn hóa đại chúng đáng kinh ngạc của Nhật Bản trong kỷ
 nguyên Heisei, khó mà không nhắc đến Pokémon. Thương hiệu quái vật – 
theo mọi nghĩa của từ này – bao gồm trò chơi video, phim hoạt hình, thẻ 
giao dịch, đồ chơi và nhiều thứ khác, lần đầu xuất hiện ở Nhật Bản vào 
năm 1996 và phần còn lại của thế giới ngay sau đó. 
Pokémon: The First Movie
 là một phần của cuộc đổ bộ truyền thông đó, phiên bản màn ảnh rộng 
của bộ anime làm say mê trẻ em trên toàn thế giới. Nó còn sản sinh ra 
một loạt phim hàng năm, với phần phim năm 2019 sẽ là bản làm lại bộ phim
 gốc.
Spirited Away (2001/Năm Heisei thứ 13)

  
  
  
Đến cuối những năm 1990, Hayao Miyazaki có lẽ đã trở thành đạo diễn anime nổi tiếng nhất thế giới – và việc phát hành 
Spirited Away
 sẽ xóa tan mọi ngờ vực. Câu chuyện về một cô gái trẻ bước sang một thế 
giới khác, nơi cô ấy bị buộc phải lao động trong nhà tắm cho những sinh 
vật bí ẩn, 
Spirited Away đã trở thành bộ phim có doanh thu cao 
nhất mọi thời đại của Nhật Bản, một kỷ lục vẫn còn giữ đến ngày nay. Nó 
cũng đem về cho Miyazaki giải Oscar Phim hoạt hình hay nhất, bộ phim 
Nhật Bản duy nhất giành được giải Oscar đó cho đến nay.
Summer Wars (2009/Năm Heisei thứ 21)

    
  
  
Nửa sau của kỷ nguyên Heisei chứng kiến sự nổi lên của Mamoru Hosoda, một đạo diễn bắt đầu học hỏi ở các chuỗi phim như 
Digimon, và 
One Piece, trước khi chuyển sang chỉ đạo các phim nguyên bản của riêng mình. Bước đột phá của ông là 
Summer Wars,
 bộ phim về một gia đình lớn sống ở vùng nông thôn Nhật Bản đã cùng nhau
 đánh bại trí thông minh nhân tạo đe dọa mang lại đại chiến hạt 
nhân. Sự phụ thuộc vào công nghệ của thời hiện đại là mối quan tâm danh 
nghĩa của câu chuyện, nhưng tầm nhìn đa tầng đáng ngạc nhiên về tình 
bạn, gia đình và cộng đồng mới là điều mang đến hồn phách cho bộ phim 
khoa học giả tưởng này. Hosoda đã thăm lại những chủ đề đó trong bộ 
phim mới nhất, 
Mirai, nhận được một đề cử Oscar năm nay.
Redline (2010/Năm Heisei thứ 22)

   
  
  
Khi kỷ nguyên Heisei diễn tiến và toàn bộ ngành công nghiệp hoạt hình 
bắt đầu phụ thuộc nhiều hơn vào tạo hình vi tính, các nhà làm phim 
Takeshi Koike và Katsuhito Ishii đã làm ngược lại với 
Redline, 
một tác phẩm hoạt hình vẽ tay siêu động phải mất bảy năm để thực hiện. Câu
 chuyện về một cuộc đua xe hơi tương lai trên một hành tinh xa xôi, 
Redline
 đưa người xem vào chuyến đi đầy ắp adrenaline khiến họ cười mãi đến
 tận khi chạy hết ‘credit’ – ấy là nói những khán giả nào có xem đến đó.
 Bộ phim là một thất bại phòng vé, khiến nó có lẽ là phim hoạt 
hình analogue cuối cùng của thể loại vẻ vang này.
Your Name (2016/Năm Heisei thứ 28)

    
   
  
Trước khi 
Your Name được phát hành, đạo diễn của bộ phim, 
Makoto Shinkai, là một nhà làm phim được đánh giá cao, có đầu óc nghệ 
thuật có lượng người hâm mộ khiêm tốn. Vài tháng sau, anh là tác giả của
 bộ phim hoạt hình có doanh thu cao nhất mọi thời đại trên toàn thế 
giới. 
Your Name, câu chuyện kiểu 
Freaky Friday về hai 
người yêu nhau hoán đổi thân xác, đã trở thành hiện tượng trên toàn 
thế giới và có thể đã truyền cảm hứng cho Hayao Miyazaki từ bỏ chuyện 
nghỉ hưu. Phim mới nhất của Shinkai, 
Weathering With You, sẽ ra
 mắt vào mùa hè này – chúng ta sẽ xem liệu anh có thể ghi điểm anime 
thành công lớn đầu tiên của kỷ nguyên mới của Nhật Bản hay không.
Dịch: © Ngân Mai @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Time Out
